Đăng ký
Đăng ký tài khoản>
Có nhiều nghiên cứu và bằng chứng được đưa ra về nguồn gốc thực sự của Golf
Nguồn gốc thực sự của golf cho đến nay vẫn
là một vấn đề gây nhiều tranh cãi với những giả định về sự hiện diện của các
trò chơi tương tự golf ở nhiều nơi trên thế giới và thậm chí có từ thời cổ đại.
Thời Ai Cập/ La Mã cổ đại
Trò chơi với gậy và bóng giống Golf hiện đại được cho là đã có từ năm 2600 TCN ở miền trung Ai Cập, được thể hiện trên các bức tranh ở những ngôi mộ và các bức phù điêu cho thấy hình ảnh những người đàn ông với gậy và bóng. Một quan điểm khác của các nhà sử học cho rằng Golf có nguồn gốc từ trò chơi Paganica của La Mã cổ đại, trong đó một quả bóng da hoặc lông vũ được đánh bằng những gậy gỗ cong tới một mục tiêu là tảng đá hoặc cây xanh.
Các bức phù điêu thời Ai Cập cho thấy hình ảnh môn chơi giống với Golf
Trò chơi Chuiwan của Trung Quốc
Bên cạnh đó cũng có những quan điểm cho rằng nguồn gốc thực sự của Golf phát triển từ trò chơi Chuiwan thời nhà Minh (1368 – 1644) ở Trung Quốc, trong đó luật của môn chơi này được cho là giống với Golf hiện đại khi người chơi sử dụng một bộ 10 gậy đánh vào quả bóng gỗ tới các lỗ được đặt trên những địa hình có độ khó khác nhau và được đánh dấu bởi những lá cờ nhiều màu sắc. Các học giả theo quan điểm này cho rằng Chuiwan được du nhập vào châu Âu bởi giới thương gia ở cuối thời Trung Cổ.
Trò chơi Chuiwan tại Trung Quốc từ những năm 1000
Trò chơi Chole/ Colf/ Kolf của Hà Lan – Bỉ
Xét trên khía cạnh Golf đồng đội thì trò
chơi Chole được cho là có nhiều khả năng là nguồn gốc của Golf và hiện vẫn đang được chơi ở miền Nam nước Bỉ.
Đây là một môn chơi đồng đội cổ xưa của người
Hà Lan – Bỉ, trong đó quả bóng bằng gỗ sồi được hai đội đánh tới một mục
tiêu có khoảng cách xa, đội đưa bóng tới mục tiêu trước sẽ là đội chiến thắng.
Cũng tại Hà Lan, có một môn chơi tên gọi là Colf và có nhiều điểm tương đồng nhất với Golf hiện đại. Một nhà nghiên cứu tên Van Henkel đã “truy tìm” những bài viết của người Hà Lan về môn chơi nay diễn ra trong ngày Boxing Day năm 1927 tại Loenen aan de Vecht, miền Bắc Hà Lan. Theo đó, người dân ở thị trấn đã chơi 4 “hố” tất cả với tổng chiều dài 4,950 yard bằng gậy gỗ dài có đầu kim loại và bóng da – giống với dụng cụ chơi của Golf hiện đại thời kỳ đầu tại Scotland. Tuy nhiên, thay vì chơi qua các “hole” như Golf ngày nay, người chơi sẽ đánh qua 4 “door” gồm một tòa lâu đài, một cối xay gió, một căn bếp, và một tòa án. Đến đầu thế kỷ 18, Colf biến mất và được thay thế bằng Kolf – phiên bản đơn giản hơn và được chơi trên một sân chơi có chiều dài bằng sân Cricket 22 yard.
Trò chơi Colf tại Hà Lan
Golf ở Scotland
Dù có nhiều giả định về nguồn gốc thực sự của Golf và chắc chắn có nhiều hình thức chơi tương tự Golf từng được chơi ở nhiều đất nước trong những khoảng thời gian trước đó, nhưng cho đến cuối cùng đất nước Scotland vẫn được cả thế giới công nhận là “quê hương của Golf bởi đó là nơi khởi đầu và phát triển những thể thức thi đấu golf hiện đại từ năm 1457. Không chỉ vậy, việc hình thành sân golf 18 hố như là một thiết kế tiêu chuẩn cũng bắt nguồn tại St Andrews vào năm 1764.
Scotland được coi là "quê hương của Golf"
Dụng cụ Golf cổ
Bóng golf
Bóng lông vũ (Featherie) là loại bóng đầu tiên dùng để chơi golf và là loại đặc biệt nhất trong số các loại bóng golf. Featherie bắt đầu xuất hiện tại Scotland từ đầu thế kỷ XVI và đến giữa thế kỷ XVIII, nó chính thức là loại bóng golf tiêu chuẩn dành cho các golfer. Để tạo nên một quả bóng lông vũ, đầu tiên người ta sẽ luộc lông lên trong vài giờ để làm lông mềm và ướt, sau đó nhét chúng thật chặt vào quả bóng da và khâu lại. Khi lông bên trong quả bóng khô lại chúng sẽ “nở” ra, trong khi lớp da bên ngoài quả bóng sẽ co lại, cuối cùng tạo nên một quả bóng vô cùng cứng và chắc. Quá trình tạo nên quả bóng lông vũ hoàn toàn bằng thủ công và đòi hỏi độ khéo léo, tỉ mỉ cao nên nó là loại có giá trị cao nhất trong các bộ sưu tầm bóng golf cổ của các tín đồ golf ngày nay. Bóng lông vũ có thể đánh với khoảng cách xa (tối đa 361 yard) nhưng lại dễ bị thấm nước khiến bóng không đạt tới khoảng cách mong muốn và dễ bị méo mó, hư hỏng khi đánh bằng gậy sắt. Bởi vậy, từ năm 1848 bóng Featherie dần được thay thế bởi các loại bóng khác tối ưu hơn, chi phí sản xuất thấp hơn, và mang lại hiệu quả cao hơn cho người chơi như bóng Gutty (gôm dẻo), bóng Haskell (cao su), và bóng nhựa ngày nay (lõi nhựa cứng và vỏ bọc Surlyn).
Gậy golf
Nói về gậy Golf cổ không thể không nhắc đến các loại gậy gỗ “mũi dài” (Longnose Club) thời kỳ đầu của Golf. Từ cuối những năm 1700 khi các hội golf và sân golf mọc lên nhiều hơn đã làm xuất hiện nhiều nhà sản xuất gậy golf. Người chơi golf của những năm 1800 thường sử dụng một bộ gậy gồm khoảng 10 loại gậy gỗ khác nhau, bao gồm một gậy “Play Club” (tương đương gậy Driver ngày nay), một gậy “Grass Driver” đánh trên fairway, hai đến ba gậy “Spoon” dùng khi ra khỏi fairway, một gậy “Niblick” sử dụng trong những trường hợp bóng khó, và hai đến ba gậy “Putter”. Các loại gậy này đều là loại “mũi dài” với độ dài khác nhau và phù hợp một cách hoàn hảo với loại bóng lông vũ thời kỳ đầu của Golf.
Tuy nhiên cho đến thời bóng Gutty thay thế cho bóng lông vũ, gậy Longnose được thay thế bởi loại gậy từ năm 1880 với thiết kế đầu gậy ngắn hơn, chắc chắn hơn, có mặt gậy tròn và lồi để phù hợp với loại bóng Gutty. Đa phần các loại gậy gỗ thời kỳ đầu của golf đều được làm bằng chất liệu gỗ sồi, táo, hoặc gỗ của cây nhựa ruồi của vùng Scotland. Nhưng đến những năm 1890 các nhà sản xuất gậy golf đã chuyển sang sử dụng loại gỗ của cây Hồng vàng (Persimmon) cho đầu gậy, và đến những năm 1980 các loại cán gậy đều được thay bằng loại gỗ của cây mại châu (Hickory) du nhập từ Mỹ như là một thiết kế tiêu chuẩn. Đầu gậy Persimmon và cán gậy Hickory được cho là mang đến sự kết hợp hoàn hảo giữa sức mạnh, độ bền, độ chắc chắn, và tối ưu hiệu quả đánh bóng cho người chơi.
Cũng từ khi bóng Gutty được sử dụng, loại gậy sắt cũng được sử dụng phổ biến hơn và được gọi là các gậy “Cleek”. Thực tế gậy sắt đã xuất hiện từ thế kỷ XVIII nhưng hiếm khi được sử dụng bởi chúng dễ làm hỏng loại bóng lông vũ. Cho đến năm 1890 đã có rất nhiều loại gậy sắt ra đời giúp cho các golfer có thể xử lý được nhiều loại tình huống bóng khi lên sân, bởi vậy nên trong một bộ gậy của golfer số gậy sắt thường nhiều hơn gậy gỗ. Cụ thể, ngoài ba loại gậy gỗ là Driver, Mashie, Spoon, thì có thêm cá loại gậy sắt như Driving Iron (tương đương gậy Sắt 1 ngày nay), Cleek (Sắt 2), Mid Maskie (Sắt 3), Mashie Iron (Sắt 4), Mashie (Sắt 5), Spade Mashie (Sắt 6), Mashie Niblick (Sắt 7), Pitching Niblick (Sắt 8), Niblick (đánh cát)…Cho đến ngày nay gậy Driver không còn bằng gỗ mà chủ yếu bằng chất liệu Titanium và các loại gậy sắt đa phần đều có mặt gậy Aluminum và cán bằng thép hoặc than chì.
Dalat Palace Golf Club là sân golf đầu tiên được xây dựng tại Việt Nam
Golf được du nhập về Việt Nam dưới thời Vua Bảo Đại – vị vua cuối cùng của triều Nguyễn tại Việt Nam, khi ông đi du học tại Pháp đã khám phá ra môn thể thao này và mang về Việt Nam năm 1920. Khi đó golf được biết đến là môn thể thao xa xỉ chỉ dành cho vua chúa và không phải ai cũng biết đến. Cũng chính vua Bảo Đại là người đã xây dựng sân golf Đồi Cù - sân golf đầu tiên tại Việt Nam, nay là sân Dalat Palace Golf Club. Phải đến năm 1990, golf mới được biết đến nhiều hơn, nhưng vẫn được xem là dành cho tầng lớp thượng lưu.
Cho đến hiện nay, phong trào golf đã ngày càng phát triển hơn ở Việt Nam với số lượng sân golf ngày càng tăng với gần 100 sân trên khắp cả nước và hàng trăm nghìn khách golf nước ngoài đến chơi mỗi năm.